Thâm hụt thương mại ngày càng lớn của nước Mỹ đang âm thầm bán đứng quốc gia. Đây là giải pháp – và chúng ta phải thực hiện ngay.
Warren E. Buffett - 2003
“Investors do not make mistakes, or bad mistakes, in buying good stocks as fair prices. They make their most serious mistakes by buying poor stocks, particularly the ones that are pushed for various reasons. And sometimes — in fact, very frequently — they make mistakes by buying good stocks in the upper reaches of a bull market.” —Ben Graham
Trada Thế Giới 🌎
Thế giới đang chao đảo hỗn loạn vì các chính sách thuế quan của Mỹ.
Tuy nhiên, tất cả những gì đang xảy ra là điều tất yếu phải làm đối với Mỹ do hệ quả của việc thâm hụt thương mại và dư nợ công quá lớn, tồn tại rất nhiều năm. Nếu Mỹ không hành động ngay và cứng rắn thì sự sụp đổ sẽ là điều không thể tránh khỏi.
Cách đây 22 năm, có một nhà tiên tri đến từ xứ Omaha tên Warren Buffett đã nhìn ra vấn đề của nước Mỹ và đã đưa ra lời cảnh báo đối với các nhà làm chính sách. Ông còn lên kế hoạch và vẽ đường đi nước bước êm dịu cho các chính trị gia của mình.
Nhưng mà thân lừa thì ưa quả tạ, nên phải tới 22 năm sau khi nước dâng đến cổ thì mọi người mới tìm cách vùng vẫy khỏi đống bùn đã được cảnh báo từ trước. Hiển nhiên, những thứ được đợi đến phút cuối cùng mới chuẩn bị thì sẽ không bao giờ hoàn hảo. Đó là lí do mà chúng ta đang chứng kiến sự hỗn loạn của ngày hôm nay.
Hãy cùng chúng tôi đọc lại bài viết dưới đây của cụ Warren Buffett đã được đăng tải trên Forbes vào năm 2003 về thâm hụt thương mại của Mỹ để so sánh với hành động của chính quyền Donald Trump bây giờ giống và khác nhau ở đâu? Từ đó, liệu chúng ta có thể rút ra được kết luận gì cho một đất nước xuất siêu sang Mỹ như Việt Nam hay không?
Tôi sắp đưa ra một lời cảnh báo nghiêm trọng liên quan đến tình trạng thâm hụt thương mại của Mỹ, đồng thời đề xuất một giải pháp cho vấn đề này. Nhưng trước tiên, tôi muốn đề cập tới hai lý do khiến bạn có thể sẽ nghi ngờ những gì tôi sắp nói.
Thứ nhất, khả năng dự báo vĩ mô của tôi từ trước đến nay không có gì đáng tự hào. Ví dụ, suốt hai thập kỷ qua, tôi đã nhiều lần quá lo ngại về nguy cơ lạm phát. Đáng nói hơn, từ năm 1987, tôi đã bắt đầu công khai lo lắng về thâm hụt thương mại ngày càng gia tăng của nước Mỹ – nhưng như bạn thấy đấy, chúng ta không chỉ sống sót mà còn phát triển mạnh mẽ. Về vấn đề thương mại này, có thể nói tôi đã từng là người "báo động giả". Tuy nhiên, lần này tôi sẽ lại "kêu cứu", và tôi còn đặt cược tiền của Berkshire Hathaway vào nhận định này.
Cho tới mùa xuân năm 2002, tôi đã sống gần 72 năm mà chưa từng mua bất kỳ đồng ngoại tệ nào. Kể từ đó, Berkshire Hathaway đã đầu tư đáng kể và hiện đang nắm giữ một lượng lớn các loại ngoại tệ. Tôi sẽ không tiết lộ cụ thể là loại tiền nào, thực tế điều này không quá quan trọng. Điểm mấu chốt ở đây là: việc nắm giữ các loại tiền tệ khác đồng nghĩa với việc tin rằng đồng đô-la Mỹ sẽ mất giá.
Là một người Mỹ và một nhà đầu tư, tôi thực sự mong rằng quyết định này là sai lầm. Bởi vì bất kỳ khoản lợi nhuận nào Berkshire thu được từ giao dịch ngoại hối cũng chẳng thấm tháp gì so với những tổn thất mà công ty cùng các cổ đông của chúng tôi phải chịu trong các khía cạnh khác của cuộc sống nếu đồng đô-la lao dốc mạnh.
Tuy nhiên, với vai trò là người đứng đầu Berkshire Hathaway, tôi có trách nhiệm đầu tư tiền bạc của công ty một cách hợp lý nhất. Và lý do khiến tôi quyết định từ nói sang hành động sau nhiều năm là bởi vì thâm hụt thương mại của Mỹ đã xấu đi nghiêm trọng, đến mức giá trị tài sản ròng của quốc gia chúng ta đang ngày càng chảy ra nước ngoài với tốc độ đáng báo động.
Nếu việc chuyển giao tài sản này cứ tiếp tục, sẽ dẫn đến những rắc rối rất lớn. Để hiểu tại sao, hãy tưởng tượng một câu chuyện hơi viển vông một chút với tôi về hai hòn đảo biệt lập, nằm cạnh nhau, có diện tích tương đương, tên là Squanderville ("Đảo Lãng Phí") và Thriftville ("Đảo Tiết Kiệm"). Đất đai là tài sản duy nhất trên các hòn đảo này. Dân cư sống khá nguyên thủy, chỉ cần và chỉ sản xuất lương thực. Làm việc 8 giờ một ngày, mỗi cư dân sản xuất vừa đủ lượng thức ăn để nuôi sống bản thân. Và trong thời gian dài, hai đảo này đều tự cung tự cấp theo cách đó.
Rồi một ngày, những cư dân chăm chỉ của Thriftville quyết định tiết kiệm và đầu tư nghiêm túc hơn nữa. Họ bắt đầu làm việc 16 giờ một ngày, nhưng vẫn chỉ tiêu thụ lượng thức ăn sản xuất trong 8 giờ, và xuất khẩu lượng thức ăn sản xuất trong 8 giờ còn lại sang Squanderville – đối tác thương mại duy nhất của họ.
Cư dân đảo Squanderville vui mừng trước diễn biến này, bởi họ không phải lao động nhưng vẫn được ăn uống đầy đủ như trước. Đương nhiên, cái gì cũng có cái giá của nó – nhưng với người dân Squanderville, dường như đó là một trao đổi vô hại: thứ duy nhất mà cư dân đảo Thriftville muốn nhận để đổi lấy thực phẩm là những tờ trái phiếu "Squanderbond", được định giá bằng đồng tiền "Squanderbuck".
Qua thời gian, Thriftville tích luỹ một lượng trái phiếu khổng lồ, bản chất là quyền đòi hỏi sản lượng tương lai của Squanderville. Một vài nhà phân tích ở Squanderville bắt đầu cảm nhận được nguy cơ đang đến gần. Họ dự báo rằng để vừa ăn vừa trả nợ (hay thậm chí chỉ để trả lãi), người dân đảo Squanderville cuối cùng sẽ phải làm việc nhiều hơn 8 giờ mỗi ngày. Nhưng đa số người dân Squanderville không muốn nghe những lời bi quan đó.
Trong khi đó, người dân đảo Thriftville bắt đầu lo lắng. Họ tự hỏi: những tờ giấy nợ của một hòn đảo lười biếng này liệu có giá trị đến đâu? Và thế là họ thay đổi chiến lược: mặc dù vẫn giữ lại một phần trái phiếu, họ bán phần lớn số trái phiếu còn lại cho cư dân đảo Squanderville để lấy tiền Squanderbuck, rồi dùng số tiền thu được mua lại đất đai trên đảo Squanderville. Cuối cùng, cư dân Thriftville sở hữu toàn bộ Squanderville.
Tới thời điểm này, cư dân đảo Squanderville buộc phải đối mặt với một thực tế khắc nghiệt: họ không những phải quay trở lại làm việc 8 giờ một ngày để kiếm đủ thức ăn (vì không còn gì để đổi nữa), mà còn phải làm thêm giờ để trả nợ và trả tiền thuê đất cho cư dân Thriftville – mảnh đất mà trước đây họ đã thiếu suy nghĩ bán đi. Squanderville, về bản chất, đã bị thuộc địa hoá thông qua tiền bạc, chứ không phải bằng vũ lực.
Tất nhiên, có thể lập luận rằng giá trị hiện tại của lượng sản phẩm tương lai mà Squanderville buộc phải chuyển cho Thriftville là tương đương với lượng sản phẩm ban đầu mà Thriftville từ bỏ, và do đó hai bên có thể coi là công bằng. Nhưng bởi vì một thế hệ người dân Squanderville được hưởng lợi miễn phí, trong khi các thế hệ tương lai phải trả nợ vô thời hạn, thì trong thuật ngữ kinh tế, đây là một sự bất công giữa các thế hệ hết sức nghiêm trọng.
Hãy nghĩ đơn giản hơn về vấn đề này như chuyện của một gia đình: Giả sử tôi, Warren Buffett, có thể khiến các nhà cung cấp tất cả hàng hoá và dịch vụ tôi sử dụng trong suốt cuộc đời này chấp nhận những tờ giấy nợ của "gia đình Buffett". Những giấy nợ ấy sẽ được thanh toán bởi con cháu tôi trong tương lai – kèm theo lãi suất. Xét về mặt toán học, thương vụ này có thể được coi là công bằng giữa "gia đình Buffett" với các chủ nợ. Nhưng chắc chắn các thế hệ sau của gia đình Buffett sẽ chẳng hề cảm kích gì với thoả thuận ấy (và thậm chí, không loại trừ khả năng họ sẽ từ chối trả nợ).
Quay trở lại câu chuyện của hai hòn đảo: sớm hay muộn, chính phủ đảo Squanderville sẽ phải đối mặt với gánh nặng nợ ngày càng lớn, và họ rất có thể sẽ chọn cách theo đuổi chính sách lạm phát mạnh – tức là in thêm thật nhiều đồng Squanderbuck để làm mất giá đồng tiền này. Lý do rất đơn giản: các khoản trái phiếu Squanderbond kia thực chất chỉ là quyền đòi hỏi một số lượng cụ thể đồng Squanderbuck, chứ không phải quyền đòi hỏi một giá trị nhất định nào đó. Nói cách khác, khiến cho đồng Squanderbuck trở nên vô giá trị hơn là cách đơn giản nhất để giảm bớt áp lực nợ nần.
Chính bởi viễn cảnh đó mà nếu tôi là cư dân đảo Thriftville, tôi sẽ chọn sở hữu trực tiếp đất đai trên Squanderville hơn là trái phiếu của chính phủ đảo này. Bởi vì hầu hết các chính phủ thường cảm thấy dễ dàng hơn khi âm thầm làm mất giá trị đồng tiền mà người nước ngoài đang nắm giữ, thay vì trắng trợn chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu nước ngoài. Người ta luôn thích "ăn cắp" một cách lặng lẽ hơn là công khai.
Nhưng tất cả câu chuyện viển vông về hai hòn đảo này có liên quan gì tới nước Mỹ? Câu trả lời rất đơn giản: Sau Thế chiến thứ hai cho tới đầu những năm 1970, Mỹ đã hành động giống như đảo Thriftville, thường xuyên xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Chúng ta tích cực đầu tư phần thặng dư ra nước ngoài, khiến tài sản ròng (chênh lệch giữa tài sản Mỹ sở hữu ở nước ngoài và tài sản nước ngoài sở hữu tại Mỹ) tăng từ 37 tỷ USD vào năm 1950 lên 68 tỷ USD năm 1970 (theo phương pháp tính toán cũ mà chính phủ từng sử dụng).
Vào thời điểm đó, nói một cách dễ hiểu, "tài sản ròng" của nước Mỹ bao gồm toàn bộ tài sản trong lãnh thổ Mỹ, cộng thêm một phần nhỏ tài sản từ phần còn lại của thế giới.
Vì nước Mỹ khi đó đang trong vị thế "chủ nợ ròng" đối với phần còn lại của thế giới, chúng ta còn thu được dòng thu nhập đầu tư ròng, cộng thêm vào thặng dư thương mại, và đây trở thành nguồn vốn đầu tư bổ sung quan trọng. Tình hình tài chính quốc gia của Mỹ thời kỳ ấy cũng tương tự một cá nhân vừa tiết kiệm một phần tiền lương, vừa tái đầu tư lợi nhuận từ tài sản hiện có.
Nhưng từ cuối những năm 1970, tình hình thương mại đã đảo chiều, bắt đầu xuất hiện các khoản thâm hụt, ban đầu chỉ khoảng 1% GDP mỗi năm. Mức này không quá nghiêm trọng, nhất là khi thu nhập đầu tư ròng vẫn dương. Thực tế, nhờ sức mạnh của lãi kép, tài sản sở hữu ròng của Mỹ đạt đỉnh năm 1980, khoảng 360 tỷ USD.
Kể từ đó, tình hình ngày càng tệ đi nhanh chóng, đặc biệt nghiêm trọng trong 5 năm gần đây. Thâm hụt thương mại hàng năm hiện vượt mức 4% GDP. Đáng báo động hơn, hiện tại nước ngoài đang sở hữu nhiều hơn Mỹ khoảng 2.500 tỷ USD. Một phần trong số này nằm ở trái phiếu chính phủ và trái phiếu tư nhân Mỹ, phần còn lại nằm trong bất động sản và cổ phiếu.
Thực tế, đất nước chúng ta đang hành xử như một gia đình rất giàu có sở hữu một trang trại rộng lớn. Nhưng để tiêu dùng vượt khả năng sản xuất khoảng 4% mỗi năm – chính là mức thâm hụt thương mại – chúng ta đang ngày ngày bán đi từng phần trang trại và gia tăng khoản thế chấp đối với những tài sản còn lại.
Để hình dung rõ hơn con số 2.500 tỷ USD tài sản ròng mà nước ngoài đang sở hữu, hãy so sánh với tổng giá trị khoảng 12.000 tỷ USD của tất cả cổ phiếu Mỹ đang giao dịch trên thị trường chứng khoán, hoặc giá trị tương đương của toàn bộ bất động sản dân cư Mỹ, hoặc tổng tài sản quốc gia khoảng 50.000 tỷ USD theo ước tính của tôi. Rõ ràng, lượng tài sản đã chuyển giao ra nước ngoài là đáng kể, chiếm khoảng 5% tổng tài sản quốc gia.
Nhưng nghiêm trọng hơn, khối tài sản người nước ngoài sở hữu tại Mỹ đang tăng thêm khoảng 500 tỷ USD mỗi năm với mức thâm hụt thương mại hiện tại. Điều này đồng nghĩa rằng tỷ lệ sở hữu của người nước ngoài trong tổng tài sản quốc gia của Mỹ sẽ tiếp tục tăng thêm khoảng 1 điểm phần trăm mỗi năm. Khi tỷ lệ sở hữu này tăng lên, dòng thu nhập đầu tư ròng hàng năm sẽ ngày càng chảy ra khỏi nước Mỹ. Chúng ta từ vị thế là bên nhận lãi và cổ tức ròng sẽ chuyển sang vị thế phải trả ngày càng nhiều tiền lãi và cổ tức cho thế giới. Chúng ta đã bước vào giai đoạn "lãi kép âm" – tạm biệt sự thoải và chào đón những nỗi đau dài hạn.
Kinh tế học cơ bản từng dạy chúng ta rằng không một quốc gia nào có thể duy trì thâm hụt thương mại lớn và liên tục gia tăng trong thời gian dài. Đến một thời điểm nào đó, những quốc gia chuyên vay mượn để tiêu dùng sẽ bị điều chỉnh lại bằng tỷ giá, hoặc bị các quốc gia chủ nợ từ chối nhận thêm các giấy nợ. Thực tế, nhiều quốc gia từng vay mượn quá mức đã gặp phải tình trạng mất khả năng tiếp cận vốn rất đột ngột trong những thập niên gần đây.
Nhưng Mỹ lại đang ở một vị thế đặc biệt. Chúng ta có thể hành xử tùy ý như hiện tại, vì lịch sử tài chính của chúng ta rất xuất sắc và vì chúng ta rất giàu. Không ai nghi ngờ khả năng thanh toán của Mỹ, và chúng ta còn rất nhiều tài sản hấp dẫn để đổi lấy hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, hạn mức tín dụng quốc gia không phải là vô hạn.
Đã đến lúc phải ngừng ngay việc đánh đổi tài sản quốc gia để lấy hàng tiêu dùng, và tôi có một kế hoạch để thực hiện điều đó. Giải pháp tôi đề xuất có thể nghe hơi giống một mánh khoé, và thực chất nó cũng là một dạng thuế quan, nhưng theo một cách khác. Tuy nhiên, đây là một dạng thuế quan giữ được hầu hết những ưu điểm của thị trường tự do: không bảo hộ riêng ngành công nghiệp nào, không nhắm vào bất kỳ quốc gia cụ thể nào, cũng không kích động chiến tranh thương mại. Kế hoạch này sẽ làm tăng xuất khẩu của Mỹ, thậm chí còn có thể thúc đẩy thương mại toàn cầu nói chung. Nó cũng sẽ giúp chúng ta cân bằng lại cán cân thương mại mà không phải chứng kiến một sự sụt giảm nghiêm trọng nào của đồng đô la, điều mà theo tôi, nếu không làm gì cả, gần như chắc chắn sẽ xảy ra.
Chúng ta sẽ đạt được cân bằng thương mại bằng cách phát hành thứ mà tôi gọi là "Chứng chỉ Nhập khẩu" (Import Certificates – IC). Mỗi nhà xuất khẩu Mỹ sẽ được nhận số lượng IC tương ứng giá trị xuất khẩu tính bằng USD. Sau đó, nhà xuất khẩu Mỹ sẽ bán những chứng chỉ này cho các bên muốn nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ, có thể là nhà xuất khẩu nước ngoài hoặc nhà nhập khẩu Mỹ. Ví dụ, nếu muốn nhập khẩu lượng hàng trị giá 1 triệu USD vào Mỹ, nhà nhập khẩu sẽ cần có IC với giá trị tương ứng từ lượng hàng xuất khẩu 1 triệu USD. Kết quả tất yếu của việc này sẽ là cán cân thương mại được cân bằng.
Vì xuất khẩu của Mỹ hiện đạt khoảng 80 tỷ USD mỗi tháng, IC sẽ được phát hành hàng tháng với số lượng tương đương, tức 80 tỷ chứng chỉ mỗi tháng, tạo ra một thị trường rất thanh khoản. Sau đó, cạnh tranh thị trường sẽ quyết định ai là người mua các chứng chỉ này và họ sẽ trả giá bao nhiêu. (Tôi hình dung các chứng chỉ này sẽ chỉ có giá trị trong thời gian ngắn, khoảng 6 tháng, để ngăn các nhà đầu cơ tích trữ chúng.)
Ví dụ minh họa, giả sử mỗi chứng chỉ IC được bán với giá khoảng 10 cent cho mỗi USD xuất khẩu. Như vậy, một nhà sản xuất Mỹ có thể kiếm thêm 10% khi xuất khẩu hàng ra thị trường quốc tế thay vì bán trong nước, với khoản thu nhập thêm 10% này đến từ việc bán chứng chỉ IC.
Theo tôi, nhiều nhà xuất khẩu sẽ coi đây là cơ hội giảm chi phí, giúp họ giảm giá sản phẩm trên thị trường quốc tế. Điều này đặc biệt hiệu quả với những hàng hóa có tính chất như hàng hóa cơ bản. Ví dụ, nếu giá nhôm tại Mỹ là 66 cent/pound, và chứng chỉ IC có giá trị khoảng 10%, nhà sản xuất nhôm Mỹ có thể bán ra nước ngoài với giá khoảng 60 cent/pound (cộng thêm chi phí vận chuyển) mà vẫn giữ được biên lợi nhuận thông thường. Trong kịch bản này, hàng hoá Mỹ sẽ trở nên cạnh tranh hơn đáng kể, xuất khẩu tăng trưởng, và số lượng việc làm cũng sẽ tăng theo.
Đương nhiên, hàng hoá nước ngoài khi bán vào Mỹ sẽ gặp khó khăn hơn. Nhưng đó là vấn đề họ sẽ gặp phải bất kể giải pháp nào được áp dụng – và đừng nhầm lẫn, một giải pháp kiểu gì cũng phải đến vào một lúc nào đó. (Như Herb Stein từng nói: "Nếu một điều gì đó không thể kéo dài mãi mãi, thì nó sẽ dừng lại"). Kế hoạch IC này sẽ mang lại sự linh hoạt lớn cho các quốc gia bán hàng vào Mỹ, bởi nó không nhắm vào bất kỳ ngành công nghiệp hay sản phẩm cụ thể nào. Cuối cùng, thị trường tự do vẫn là nơi quyết định mặt hàng nào sẽ được bán vào Mỹ và ai sẽ bán nó. Các chứng chỉ IC chỉ quyết định tổng giá trị hàng hóa được nhập khẩu mà thôi.
Để hình dung rõ hơn tác động của IC lên hàng nhập khẩu, hãy lấy ví dụ về một chiếc ô tô hiện có giá nhập khẩu vào Mỹ là 20.000 USD. Theo kế hoạch mới, giả sử IC được bán ở mức 10%, chi phí cho nhà nhập khẩu sẽ tăng lên thành 22.000 USD. Nếu nhu cầu thị trường rất mạnh, nhà nhập khẩu có thể chuyển hoàn toàn phần chi phí tăng thêm này sang người tiêu dùng Mỹ. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, áp lực cạnh tranh sẽ buộc nhà sản xuất nước ngoài phải chấp nhận chịu một phần, hoặc thậm chí toàn bộ, chi phí IC là 2.000 USD này.
Chắc chắn, kế hoạch IC này không phải miễn phí. Nó cũng mang lại những hậu quả tiêu cực đáng kể cho người tiêu dùng Mỹ: Giá của hầu hết các sản phẩm nhập khẩu sẽ tăng, đồng thời giá của một số sản phẩm cạnh tranh được sản xuất trong nước cũng tăng lên theo. Nói cách khác, chi phí IC thực tế đóng vai trò như một loại thuế đánh vào người tiêu dùng.
Đó là nhược điểm nghiêm trọng. Nhưng việc để đồng đô la liên tục mất giá, hoặc gia tăng thuế quan hay áp dụng hạn ngạch nhập khẩu cũng mang lại những nhược điểm lớn khác, và theo tôi, chúng thậm chí ít có cơ hội thành công hơn. Quan trọng nhất, nỗi đau do giá cả hàng nhập khẩu hiện tại tăng lên sẽ nhỏ bé hơn nhiều so với tổn thương lâu dài nếu chúng ta cứ tiếp tục bán dần tài sản quốc gia của mình.
Tôi tin rằng các IC sẽ nhanh chóng giúp Mỹ đạt được trạng thái cân bằng thương mại, ở mức cao hơn mức xuất khẩu hiện tại nhưng thấp hơn mức nhập khẩu hiện nay. Các chứng chỉ IC sẽ giúp tất cả các ngành công nghiệp Mỹ cạnh tranh hơn trên trường quốc tế một cách vừa phải, trong khi thị trường tự do vẫn quyết định ngành nào sẽ thắng thế cuối cùng dựa vào lợi thế so sánh thực sự.
Kế hoạch IC này sẽ không bị các quốc gia xuất khẩu ròng bắt chước, bởi IC của họ sẽ vô giá trị. Liệu các nước xuất khẩu lớn có trả đũa bằng các biện pháp khác hay gây ra một cuộc chiến tranh thương mại kiểu Smoot-Hawley mới không? Tôi cho rằng rất khó. Khi đạo luật Smoot-Hawley được ban hành, Mỹ đang duy trì thặng dư thương mại phi lý mà chúng ta muốn bảo vệ. Còn hiện tại, chúng ta đang có một thâm hụt nghiêm trọng mà cả thế giới đều biết rằng Mỹ sớm hay muộn cũng phải điều chỉnh lại.
Trong nhiều thập kỷ, thế giới đã quen với một mê cung phức tạp gồm thuế quan trừng phạt, trợ cấp xuất khẩu, hạn ngạch, thao túng tiền tệ và các chính sách tương tự. Nhưng dù vậy, các cuộc chiến tranh thương mại nghiêm trọng đã không xảy ra. Chắc chắn một đề xuất đơn thuần nhằm cân bằng lại tài chính của quốc gia nợ thương mại lớn nhất thế giới sẽ không thể châm ngòi cho một cuộc chiến tranh thương mại. Các quốc gia xuất khẩu lớn sẽ hành xử hợp lý như họ vẫn làm trước đây, dù họ có thể cố gắng thuyết phục chúng ta rằng họ sẽ hành xử khác.
Kịch bản khả thi nhất là sau vài động thái phản ứng ban đầu, các quốc gia xuất khẩu lớn vào Mỹ sẽ nhanh chóng tìm cách thúc đẩy nhập khẩu từ chúng ta. Hãy lấy ví dụ trường hợp của Trung Quốc, nước hiện nay xuất khẩu sang Mỹ lượng hàng hóa và dịch vụ trị giá khoảng 140 tỷ USD mỗi năm, nhưng chỉ nhập khẩu từ Mỹ khoảng 25 tỷ USD. Nếu chứng chỉ IC tồn tại, một lựa chọn của Trung Quốc là đơn giản tiếp tục xuất khẩu và mỗi năm bỏ tiền ra mua 115 tỷ USD chứng chỉ IC. Nhưng thay vào đó, Trung Quốc có thể giảm bớt nhu cầu về IC bằng cách hoặc cắt giảm lượng hàng xuất khẩu sang Mỹ, hoặc tăng cường nhập khẩu thêm hàng hóa từ Mỹ. Lựa chọn sau có lẽ sẽ dễ chịu hơn với Trung Quốc, và chúng ta nên mong muốn điều đó xảy ra.
Nếu xuất khẩu của Mỹ tăng lên đáng kể và số lượng IC phát hành tăng theo, giá trị thị trường của IC sẽ giảm xuống. Thực tế, nếu xuất khẩu Mỹ tăng đủ mạnh, các IC sẽ trở nên gần như vô giá trị, và khi ấy kế hoạch này sẽ tự trở thành không cần thiết. Khi được trao quyền chủ động để làm điều đó, các quốc gia xuất khẩu lớn có thể nhanh chóng loại bỏ những biện pháp mà hiện tại họ đang sử dụng để kìm hãm xuất khẩu từ Mỹ.
Nếu Mỹ quyết định áp dụng kế hoạch IC, chúng ta cũng có thể cân nhắc một vài năm chuyển tiếp, trong đó chủ động duy trì một mức thâm hụt nhỏ để thế giới có thể dần điều chỉnh khi chúng ta đạt tới mục tiêu cân bằng. Trong giai đoạn chuyển đổi này, chính phủ Mỹ có thể đấu giá thêm các chứng chỉ IC "thưởng" mỗi tháng, hoặc đơn giản là tặng chúng cho các quốc gia đang phát triển nhằm giúp họ tăng xuất khẩu. Phương pháp sau sẽ tạo ra một dạng viện trợ quốc tế đặc biệt hiệu quả và rất được hoan nghênh.
Trước khi kết thúc, tôi xin nhắc lại rằng tôi đã từng "kêu cứu giả" một lần trước đây. Thực tế, tỷ lệ đúng của những người thường xuyên cảnh báo các thảm hoạ ở Mỹ là rất thấp. Nước Mỹ luôn khiến cho những người hoài nghi về tiềm năng hay sức bật kinh tế của mình trở thành những kẻ ngốc nghếch. Nhiều nhà tiên tri bi quan đơn giản là đã đánh giá thấp tính năng động vốn giúp chúng ta vượt qua những khó khăn tưởng chừng không thể giải quyết được. Đất nước chúng ta vẫn là một quốc gia thực sự phi thường với nền kinh tế đáng ngưỡng mộ.
Tuy nhiên, tôi tin rằng tình trạng thâm hụt thương mại hiện tại là một vấn đề thực sự nghiêm trọng, sẽ kiểm tra toàn bộ khả năng tìm kiếm giải pháp của chúng ta. Một đồng đô-la mất giá nhẹ sẽ không thể giải quyết vấn đề này triệt để. Đúng là nó sẽ giúp giảm bớt phần nào mức thâm hụt thương mại, nhưng sẽ không đủ mạnh để chấm dứt tình trạng chảy máu tài sản quốc gia ra nước ngoài, và tình trạng thâm hụt thu nhập đầu tư ngày càng lớn mà chúng ta phải chịu.
Có lẽ sẽ còn những giải pháp hợp lý hơn kế hoạch của tôi. Nhưng suy nghĩ mơ mộng, thiếu thực tế, hay đơn giản chỉ ngồi yên cầu may, chắc chắn không phải là một giải pháp hiệu quả. Từ những gì tôi thấy hiện nay, rõ ràng cần phải hành động quyết liệt để ngăn chặn ngay việc tài sản quốc gia của chúng ta chảy ra nước ngoài. Trong số những lựa chọn hiện có, kế hoạch IC mà tôi vừa đề xuất dường như là cách ít đau đớn nhất, và chắc chắn nhất để hoàn thành nhiệm vụ này. Xin hãy nhớ rằng đây không phải là vấn đề nhỏ. Với tốc độ đầu tư ròng hiện tại, mỗi năm thế giới có thể mua và sở hữu gần 4% tổng giá trị cổ phiếu giao dịch công khai của Mỹ.
Khi đánh giá các phương án đầu tư tại Berkshire, cộng sự của tôi, Charlie Munger, thường đùa rằng: "Tôi chỉ muốn biết nơi nào tôi sẽ chết, để không bao giờ đến đó". Những người hoạch định chính sách thương mại của Mỹ nên lưu ý kỹ lời khuyên này – và bằng mọi giá phải tránh xa "Đảo Lãng phí" Squanderville.
— Warren Buffett
Nhận Định về Chính Sách Thuế Đối Ứng của Chính Quyền Donald Trump đối với Việt Nam
Từ ngày 5/4/2025: Thuế nhập khẩu bổ sung 10% được áp dụng trên toàn bộ hàng hóa từ tất cả các nước (trừ các ngoại lệ đã nêu).
Từ ngày 9/4/2025: Thuế suất cao hơn theo từng quốc gia bắt đầu có hiệu lực đối với các nước có thâm hụt lớn với Mỹ. Cụ thể, hàng hóa xuất xứ Việt Nam sẽ chịu mức thuế tổng cộng 46% (thay vì 10%) khi vào Mỹ kể từ 0h01 EDT ngày 9/4/2025.
Mức thuế 46% này chưa được làm rõ là tổng mức thuế sẽ được áp dụng lên toàn bộ hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ hay là mức trần cao nhất áp dụng cho các nhóm ngành khác nhau.
Bản chất của vấn đề không phải chính quyền Trump quan tâm về thuế đối ứng mà là sự thâm hụt thương mại giữa Mỹ và các nước khác. Mỹ muốn thu hẹp khoảng cách đó lại. Nên việc Việt Nam có áp 0% lên hàng xuất khẩu của Mỹ cũng không có nhiều ý nghĩa nếu Việt Nam từ chối nhập nhiều hàng Mỹ để đóng khoảng cách thương mại giữa hai nước. Do đó, con đường duy nhất cho Việt Nam tránh được mức thuế cao là 1/ mua nhiều hàng Mỹ hơn hoặc 2/ giảm xuất khẩu qua Mỹ. Đương nhiên Mỹ sẽ muốn điều số (1) hơn vì điều này đem lại nguồn thu cho Mỹ. Tuy nhiên, Việt Nam có đủ tiền để nhập hơn $120 tỷ hàng năm hay không thì vẫn là một câu hỏi lớn. Việc giảm xuất khẩu qua Mỹ cũng có khả năng xảy ra khi Thuế đối ứng quá cao làm cho các nhà sản xuất tại Việt Nam không còn lợi thế cạnh tranh nữa.
Tuy có chung một mục đích là muốn thu hẹp khoảng cách thương mại với các nước khác, nhưng cách làm của chính quyền Trump thô bạo và mang tính sát phạt hơn so với cách làm của cụ Warren Buffett (như cụ đã nhận định về thuế quan). Việc tự áp thuế đối ứng sẽ kém linh hoạt hơn việc để thị trường tự do điều chỉnh mức thuế như cách cụ Warren gợi ý, nhất là khi hai nước đã đạt được mức cân bằng về xuất nhập khẩu.
Sẽ rất khó cho chính quyền Trump duy trì một mức thuế lên hàng nhập khẩu ở mức cao 46% vì người chịu thiệt cuối cùng sẽ là người dân Mỹ. Vì vậy, chúng tôi kỳ vọng Việt Nam sẽ thương thảo được với Mỹ một mức ưu đãi tối ưu và phù hợp hơn nhưng không đồng nghĩa Việt Nam sẽ bước ra khỏi bàn đàm phán như một người thắng cuộc vì hiện tại chúng ta cũng chỉ đang ở cửa dưới mà thôi.
VID 06 - Cổ Phiếu KSV - Cờ bạc hay No-brainer?
Vietnam Investor Digest (VID) là chuyên mục bao gồm các bài viết về:
Vietnam Investor Digest (VID) là chuyên mục bao gồm các bài viết về:
Các cơ hội đầu tư tiềm năng tại thị trường chứng khoán Việt Nam
Các case studies về những cổ phiếu đem lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư trong dài hạn
Cập nhật về tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp trong danh mục Top Ideas
Được truy cập vào cộng đồng riêng 👉 discord.gg/sTPgVgJC5p để cùng nhau trao đổi và thảo luận về các cơ hội đầu tư được đề cập tại VID
Và những bài viết tin tức được chắt lọc về đầu tư và thị trường chứng khoán
Hãy trở thành thành viên hoặc độc giả trả phí ngay hôm nay để là người đầu tiên biết tới các cơ hội đầu tư tiềm năng, cũng như ủng hộ và tạo động lực cho chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và tìm ra các cổ phiếu tiềm năng.
Mọi thắc mắc hoặc yêu cầu trợ giúp xin vui lòng liên hệ trực tiếp qua facebook của chúng tôi.
Thanks!!!!